1. Điều kiện tự nhiên và xã hội
Cà Mau là tỉnh thuộc châu thổ đồng bằng sông Cửu Long, nằm về phía cực Nam của Việt Nam, hình dạng giống chữ V, như một bán đảo có 3 mặt giáp với biển. Phía Bắc giáp tỉnh Kiên Giang, phía Đông Bắc giáp tỉnh Bạc Liêu, phía Đông và Đông Nam giáp với Biển Đông, phía Tây giáp với vịnh Thái Lan. Diện tích tự nhiên 5.211 km2, địa hình bằng phẳng thuần nhất là đồng bằng, đất đai phì nhiêu, sông ngòi chằng chịt. Hàng năm ở phía Tây vùng Mũi Cà Mau bồi ra biển trên 50 mét. Ngoài biển có đảo Hòn Khoai, Hòn Chuối, Hòn Bương và Hòn Đá Bạc. Khí hậu Cà Mau ôn hoà thuộc vùng cận xích đạo, nhiệt đới gió mùa, có 2 mùa mưa nắng rõ rệt, không bị ảnh hưởng của lũ và ít có bão.
Cà Mau giàu tài
nguyên về rừng và biển. Hệ sinh thái rừng ngập nước có diện tích gần
100.000 ha được chia thành 2 vùng: rừng ngập lợ với đặc trưng cây tràm
là chủ yếu nằm sâu trong đất liền ở vùng U Minh hạ; ngập mặn với đặc
trưng cây đước, cây mắm là chủ yếu ở vùng Mũi Cà Mau và ven biển; trong
rừng có nhiều loài động vật, thực vật phong phú với trữ lượng lớn là đặc
sản của rừng ngập nước. Rừng Cà Mau trở thành nổi tiếng trên thế giới
và chỉ đứng sau rừng ngập mặn ở Cửa sông Amazôn (Brazil). Bờ biển Cà Mau
dài 254 km chạy từ phía biển Đông sang vịnh Thái Lan, bờ biển thấp, nền
đất yếu và bằng phẳng. Diện tích vùng biển Cà Mau rộng trên 71.000 km2,
độ sâu trung bình từ 30 đến 35 mét; trong lòng biển có nhiều loài tôm
cá, dưới thềm lục địa có trữ lượng dầu khí và khí đốt rất lớn, có khả
năng khai thác trong nhiều năm. Biển Cà Mau có vị trí trung tâm đường
biển trong vùng Đông Nam Á và sát với đường biển quốc tế, rất thuận lợi
cho phát triển kinh tế biển.
Do có vị trí địa lý tiền tiêu, tài
nguyên thiên nhiên phong phú, những đặc thù về sinh thái rừng, biển, khí
hậu thuận lợi... tạo cho Cà Mau có nhiều thế mạnh để phát triển kinh tế
thủy sản, nông lâm nghiệp, công nghiệp chế biến xuất khẩu, dịch vụ, du
lịch, khai thác khí đốt và dầu khí.
Dân số Cà Mau có 1.200.000 người,
phân bố tương đối đều, mật độ trung bình 230 người/km2, người Kinh
chiếm 97% dân số, còn lại là người Khơmer, người Hoa và một số dân tộc
ít người khác. Dân số trong độ tuổi lao động chiếm 60%, đa số là lao
động trẻ, cần cù, có thể đáp ứng nhu cầu cho nhiều lĩnh vực. Địa giới
hành chính được chia thành 8 huyện và 1 thành phố, có 89 xã, phường, thị
trấn. Thành phố Cà Mau là trung tâm tỉnh lỵ nằm trên trục quốc lộ IA và
quốc lộ 63 có ý nghĩa chiến lược cả về kinh tế, quốc phòng. Nhịp độ
phát triển đô thị của Cà Mau khá nhanh; mấy chục năm trước từ là thị xã
bé nhỏ, nay Cà Mau là thành phố; thị trấn Năm Căn, Sông Đốc, Cái Đôi
Vàm, cửa biển Khánh Hội, ông Trang, Rạch gốc, Gành Hào... cũng đang hình
thành dáng dấp đô thị sầm uất của dải hành lang đô thị ven biển.
2- Lịch sử, văn hóa tỉnh Cà Mau
Nguồn gốc xa xưa Cà Mau là vùng đất hoang vu, rừng rậm, mặt đất ẩm thấp, thiếu nước ngọt, ruộng nhiều phèn, nhiều muỗi vắt nên vắng người sinh sống. Đến cuối thế kỷ 17 Cà Mau là mảnh đất cuối cùng trên con đường của người Việt chinh phục hoang vu mở mang bờ cõi. Năm 1680 một số ấp ở ven sông Bảy Háp, sông Ông Đốc, sông Gành Hào được hình thành. Năm 1714 Mạc Cửu dâng phần đất Cà Mau cho chúa Nguyễn, Mạc Thiên Tứ là con Mạc Cửu vâng lệnh triều đình lập ra đạo Long Xuyên mang tính chất quân sự để cai quản. Năm 1882 Cà Mau tách khỏi Rạch Giá, Bạc Liêu tách khỏi Sóc Trăng thành lập ra tỉnh Bạc Liêu, đây là hạt thứ 21 của Nam kỳ thuộc địa. Sau nhiều lần thay đổi địa giới và tên tỉnh, đến đầu năm 1976 Cà Mau-Bạc Liêu được đổi tên là tỉnh Minh Hải. Đến cuối năm 1996 Minh Hải lại tách ra thành hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu.
Những người tiên phong khai hoang mở
đất thuở đó là ai - đó là người Kinh quê ở miền Bắc, miền Trung khát
khao sống tự do, không chịu khuất phục cường quyền, bạo lực; là nạn nhân
của cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn muốn tìm mảnh đất sống yên thân; là
những chiêu mộ của các nhà giàu có đưa vào khai hoang lập ấp; là những
binh lính, tội đồ ... những người Hoa, Khơmer nghèo khổ lưu lạc dừng
chân tại nơi đây. Tất cả những con người rời quê bất chấp khó khăn, băng
ngàn vượt biển vào Nam tìm nơi sinh cơ lạc nghiệp, gọi chung là dân lưu
tán. Việc biến những khu rừng bạt ngàn âm u, ngập mặn nhiều phèn thành
cánh đồng lúa phì nhiêu cò bay thẳng cánh, nghĩa là các thế hệ đi trước
đã can đảm vật lộn với thiên nhiên, thú dữ, muỗi vắt, bao nhiêu mồ hôi
nước mắt và cả máu đổ ra để tạo thành nơi sinh sống lý tưởng như ngày
nay.
Con người Cà Mau chất phác, mến
khách, trọng nghĩa tình; giàu tình yêu quê hương đất nước, sẵn sàng
chiến đấu hy sinh bảo vệ Tổ quốc. Ngay từ trước những năm 30 ở Cà Mau đã
có nhiều cuộc nổi dậy của nông dân chống lại địa chủ, hương quản cướp
bóc ruộng đất. Năm 1930 các chi bộ Đảng đầu tiên được thành lập để lãnh
đạo nhân dân đấu tranh chống áp bức. Hưởng ứng cuộc khởi nghiã Nam Kỳ,
năm 1940 Tỉnh ủy Cà Mau đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai giành
thắng lợi, ghi vào trang vẻ vang của tỉnh. Từ đó ngày khởi nghĩa Hòn
Khoai 13/12 trở thành ngày truyền thống của Đảng bộ, quân dân tỉnh Cà
Mau.
Trong hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, Cà Mau là quê hương căn cứ địa cách
mạng kiên cường, đã tổ chức hàng nghìn trận đánh và chống càn chặn địch,
nổi tiếng như mặt trận Tân Hưng, chiến thắng Nhị Nguyệt, chiến thắng
Mương Điều v.v.. thời chống Pháp. Đánh tiêu diệt chi khu Đầm Dơi, Chi
khu Cái Nước, cứ điểm Chà Là, tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân,
đánh vào tận sào huyệt của địch tại thị xã Cà Mau và cùng cả nước làm
nên đại thắng mùa xuân 1975, kết thúc 20 năm chống Mỹ cứu nước.
Tỉnh Cà Mau có 45 tập thể, 21 cá nhân
được phong danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang, 507 bà mẹ Việt Nam anh
hùng; 10.836 thương binh và 16.000 liệt sỹ đã anh dũng hy sinh trong
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Với sự phấn đấu hy sinh to lớn của
Đảng bộ và quân dân Cà Mau trong 2 cuộc kháng chiến, trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nhà nước đã tặng thưởng cho tỉnh Huân chương
Sao Vàng.
Địa bàn Cà Mau từng là nơi hoạt động của nhiều đồng chí
cách mạng tiền bối như Lê Duẩn, Tạ Uyên, Phạm Hồng Thám, Phạm Hùng, Võ
Văn Kiệt v.v.. là nơi đóng quân của nhiều cơ quan, đơn vị vùng Tây Nam
bộ. Mảnh đất này đã sản sinh ra những tấm gương anh hùng tiêu biểu như:
Trần Văn Thời, Phan Ngọc Hiển, Lâm Thành Mậu, Nguyễn Việt Khái, Hồ Thị
Kỷ, Lý Văn Lâm v.v... Mũi Cà Mau còn là bến tiếp nhận vũ khí, đạn dược
của đường Hồ Chí Minh trên biển, đến nay còn để lại sự huyền bí về ý chí
oai hùng và sứ mệnh lịch của những "con tàu không số" mà người anh hùng
Bông Văn Dĩa của Cà Mau trở thành tiêu biểu. Trong thời kỳ bảo vệ Tổ
quốc Cà Mau lập nên chiến công CM 12 vào năm 1984, phá tan kế hoạch xâm
nhập của tổ chức phản động ở nước ngoài do bọn Lê Quốc Túy, Mai Văn Hạnh
cầm đầu. Những chiến công và tấm gương đó đi vào lịch sử là niềm tự hào
mãi mãi của quê hương Cà Mau.
Sắc thái văn hóa của Cà Mau có sự dung
hòa đa dạng và phong phú do được tiếp thu của nhiều nền, nhiều miền văn
hóa, nhiều tôn giáo khác nhau. Những tập quán, thuần phong mỹ tục của
người Kinh là chủ đạo có ảnh hưởng qua lại với người Khơme, người Hoa
tạo nên sự hài hòa chung cho nhiều dân tộc. Do đặc điểm sống ở vùng sông
nước, rừng biển sâu xa nên loại hình đàn ca cải lương trở thành nếp
sinh hoạt văn nghệ phổ biến trong nhân dân; miền đất này còn xuất hiện
truyện cười dân gian của Bác Ba Phi đầy huyền thoại; hàng năm nhân dân
tổ chức lễ hội Nghinh Ông ở cửa biển Sông Đốc và một số lễ hội dân gian
khác.
Những địa danh lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh có sức thu
hút du khách như Mũi Cà Mau, đảo Hòn Khoai, Hòn Đá Bạc, rừng đước Năm
Căn, rừng tràm U Minh hạ, bãi Khai Long, Giá Lồng đèn, các sân chim,
công viên Văn hóa, đầm Thị Tường v.v.. Tên tuổi của những danh nhân văn
hóa như nhà giáo Phan Ngọc Hiển, nhà báo Nguyễn Mai, bác Ba Phi, v.v..đã
để lại trong lòng người sự mến yêu, ngưỡng mộ về cảnh vật hữu tình, con
người dũng khí của đất Cà Mau.
3- Thành tựu và định hướng phát triển
Thành tựu nổi bật của Cà Mau những năm đổi mới là nhịp độ tăng trưởng
kinh tế không ngừng phát triển. Tổng giá trị sản phẩm (GDP) giai đoạn
1991 - 2000 tăng 7,75%/năm; giai đoạn 2001 - 2004 tăng 10,19%/năm. Đến
năm 2004 cơ cấu kinh tế: nông-ngư nghiệp 54,12%, công nghiệp-xây dựng
23,74%, dịch vụ 22,14%. Trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp có tỷ trọng
kinh tế thủy sản chiếm 80,49%, là ngành kinh tế quan trọng nhất của
tỉnh.
Những chỉ tiêu cơ bản của tỉnh Cà Mau đạt được đến năm
2004 đều có mức tăng trưởng cao ở giai đoạn 2001-2004: giá trị sản xuất
công nghiệp tăng bình quân 19%/năm; giá trị sản xuất ngư-nông nghiệp
tăng bình quân 5%/năm; giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân
14,5%/năm. Thu ngân sách tăng bình quân 20% năm. Sản lượng tôm đạt
91.100 tấn, tăng 85% so với năm 2000; kim ngạch xuất khẩu đạt 456 triệu
USD, tăng 96,55% so với năm 2000.
Hạ tầng cơ sở được quan tâm
đầu tư phát triển như đường giao thông, hệ thống thủy lợi, xây dựng
trường học, bệnh viện, lưới điện, cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường
v.v.. làm thay đổi đáng kể bộ mặt đô thị và nông thôn. Đời sống dân cư
không ngừng được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người năm 2004 tương
đương 520 USD, tăng 48% so với năm 2000. Mức sống dân cư đến cuối năm
2004 đã có 15% hộ giàu, 32% hộ khá, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 7,8%. Nhà ở
của dân cư được xây dựng, sửa sang khang trang hơn, nhà kiên cố chiếm
13,96%, bán kiên cố 52,33%, nhà đơn sơ và nhà tạm 33,72%; so với năm
1999 tỷ lệ nhà kiên cố tăng 3,5 lần, giảm 15% nhà đơn sơ, nhà tạm. Tỷ lệ
hộ sử dụng điện đạt 72%; điện thoại đạt 10 máy/100 dân, tăng nhiều lần
so với 5 năm trở lại đây.
Tỉnh tích cực áp dụng các chính sách
thông thoáng, khuyến khích ưu đãi đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho
các thành phần kinh tế phát triển. Đến nay trong tỉnh đã có trên 2.100
doanh nghiệp với số vốn đăng ký kinh doanh trên 2.000 tỷ đồng; kinh tế
tập thể, kinh tế trang trại cũng đang phát triển, mở rộng mô hình hoạt
động. Các thành phần kinh tế đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng của nền
kinh tế, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao
động. Năm 2004, tổng vốn đầu tư toàn xã hội lên đến 2.650 tỷ đồng, tăng
trung bình 15%/năm; dự án Khí-Điện-Đạm và một số dự án khác của Trung
ương được xây dựng trên địa bàn tỉnh với quy mô lớn đang là động lực thu
hút vốn đầu tư của nhiều doanh nghiệp trong nước, nước ngoài.
Cùng với phát triển kinh tế, lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ,
nhân dân hăng hái tham gia phong trào xã hội hóa về giáo dục-đào tạo, y
tế, văn hóa, thể dục thể thao; những hộ nghèo, gia đình chính sách,
đồng bào dân tộc được chăm lo. Tỷ lệ người biết chữ đạt 95%, có 18% lực
lượng lao động được đào tạo và có tay nghề. Hàng năm có gần 20.000 lao
động được tạo việc, tỷ lệ lao động thiếu việc làm giảm đáng kể. Hiện nay
tỉnh duy trì 100% số xã có bác sĩ; trên 80% gia đình được công nhận đạt
chuẩn văn hóa. Các tệ nạn xã hội từng bước được đẩy lùi, an ninh, quốc
phòng được giữ vững, trật tự an toàn xã hội và bảo đảm an toàn giao
thông được quan tâm thực hiện. Môi trường của Cà Mau đang là mảnh đất an
toàn cho nhân dân và các nhà đầu tư yên tâm phát triển sản xuất kinh
doanh.
Định hướng phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2010 là:
- Khai thác có hiệu quả các nguồn lực và tiềm năng của tỉnh trong mối
quan hệ phát triển của vùng đồng bằng sông Cửu Long để phát triển nhanh
và bền vững gắn với bảo vệ môi trường sinh thái; kết hợp hài hoà giữa
tăng trưởng kinh tế với giải quyết các mục tiêu xã hội, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; tăng cường củng cố quốc
phòng-an ninh, giữ vững ổn định chính trị.
- Đẩy nhanh tốc độ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá;
từng bước hình thành cơ cấu kinh tế Công nghiệp - Ngư nông lâm nghiệp -
Dịch vụ. Gắn chuyển dịch cơ cấu kinh tế với chuyển dịch lao động theo
hướng công nghiệp, dịch vụ, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh; ưu
tiên phát triển kinh tế thủy sản, công nghiệp chế biến xuất khẩu và
dịch vụ-du lịch, là những lĩnh vực có tiềm năng lợi thế, có điều kiện
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phấn đấu tốc độ phát triển
kinh tế hàng năm cao hơn mức trung bình của vùng Đồng bằng sông Cửu Long
và cả nước, rút ngắn dần khoảng cách về kết cấu hạ tầng so với cả nước.
- Quan tâm phát triển kinh tế xã hội nông thôn, nhất là các vùng đồng
bào dân tộc có nhiều khó khăn; từng bước xây dựng phát triển đô thị,
nhất là thành phố Cà Mau và các khu công nghiệp, cụm kinh tế kỹ thuật để
tạo ra mức tăng trưởng kinh tế cao và chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế.
Tỉnh Cà Mau đang hướng tới một nền kinh tế sản xuất hàng hóa phát triển
với cơ cấu kinh tế hợp lý theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm
khai thác có hiệu qủa mọi tiềm năng, nguồn lực sẵn có. Cà Mau đã xây
dựng kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2010 với các mục tiêu:
- Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng trưởng bình quân thời kỳ 2006 -
2010 là 11%. Trong đó: Nông-ngư nghiệp tăng 5,45%, công nghiệp-xây dựng
tăng 17,9%, dịch vụ tăng 13,5%.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch như sau: Nông-ngư nghiệp 34%, công nghiệp-xây dựng 36%, dịch vụ 30%.
- GDP bình quân đầu người 850 USD, tăng bình quân 9,9%/năm.
- Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 4.650 tỷ đồng, tăng bình quân 7,8%/năm.
- Kim ngạch xuất khẩu 1 tỷ USD, tăng bình quân 17%/năm.
- Thu ngân sách 1.500 tỷ đồng, tăng bình quân 14%/năm.
- Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống 1,3% vào năm 2010.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40% vào năm 2010.
- Giải quyết việc làm mỗi năm 25.000 lao động.
- Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch sinh hoạt đạt 90%.
- Tỷ lệ hộ dân sử dụng điện sinh hoạt đạt 90%.
- Hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở, từng bước phổ cập trung
học phổ thông. Hoàn thành chương trình xây dựng kiên cố hoá trường, lớp
học.
- Bình quân có 52 bác sỹ và dược sỹ đại học/100 ngàn dân.
- Bình quân có 19 máy điện thoại/100 dân.
- Phát triển các khu công nghiệp: Khu công nghiệp khí-điện-đạm, khu
công nghiệp Khánh An, khu công nghiệp phường 8; khu công nghiệp Hòa
Trung; khu công nghiệp phường 1 và một số khu công nghiệp ở thị trấn
Sông Đốc, Năm Căn v.v..
- Phát triển đô thị: Ưu tiên xây dựng hệ
thống hạ tầng đô thị thành phố Cà Mau đáp ứng yêu cầu mở rộng và chỉnh
trang đô thị, tăng cường công tác quản lý đô thị, vệ sinh môi trường,
chuẩn bị các điền kiện để nâng cấp lên đô thị loại II sau năm 2010. Phát
triển các đô thị trung tâm huyện lỵ, các đô thị ven biển: Sông Đốc, Năm
Căn, Cái Đôi Vàm và một số đô thị khác.
- Phát triển dịch vụ,
du lịch: Tập trung xuất khẩu hàng thủy sản có gía trị cao vào các thị
trường lớn. Phát triển tuyến du lịch về Mũi Cà Mau, về khu sinh thái
rừng, du lịch biển, đảo. Phát triển cơ sở hạ tầng về giao thông, lưới
điện và các dịch vụ phục vụ sản xuất-kinh doanh.
- Quan tâm phát
triển lĩnh vực văn hóa, xã hội đồng bộ, tương xứng với phát triển kinh
tế, đẩy mạnh chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm; tập
trung đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Chú trọng bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội.
- Quy hoạch phân vùng kinh tế:
Vùng
phía Bắc Cà Mau, nhiệm vụ là trồng lúa, nuôi trồng thủy sản nước ngọt,
cây công nghiệp ngắn ngày, khôi phục bảo vệ rừng tràm. Một số diện tích
trong vùng đang nuôi tôm tiếp tục phát triển mô hình trồng lúa luân canh
nuôi tôm nhằm phát triển bền vững.
Vùng phía Nam Cà Mau, Nhiệm
vụ là nuôi thủy sản, chủ yếu là nuôi tôm, luân canh trồng lúa trên đất
nuôi tôm, khôi phục bảo vệ rừng ngập mặn, đặc biệt là rừng phòng hộ ven
biển và rừng đặc dụng.
Vùng biển, tập trung đánh bắt hải sản, vận
tải biển, thăm dò khai thác dầu khí và phát triển du lịch sinh thái ven
biển, biển đảo.
Với những điều kiện tự nhiên phong phú, giàu
tiềm năng; với truyền thống lịch sử, văn hóa tốt đẹp; nhân dân có tinh
thần lao động sáng tạo, vượt qua khó khăn đang quyết tâm phấn đấu xây
dựng Cà Mau trở thành tỉnh giàu đẹp, văn minh của miền cực Nam Tổ quốc.
Theo: Phạm Văn Uýnh http://www.camauonline.com/gioi-thieu.html